Quả hồng - vị thuốc quý
19:00
|
28/07/2011
Hồng là loài cây ăn trái được trồng phổ biến. Quả hồng thường được chia thành "hồng ngọt" và "hồng chát" (hồng ngâm). Nhiều bộ phận của quả và cây hồng có thể dùng làm thuốc.
|
Nhiều bộ phận của quả hồng, cây hồng có thể dùng làm thuốc |
Phấn quả hồng (thị sương) có công hiệu thanh nhiệt, nhuận táo, tan đờm giảm ho; là vị thuốc tốt dùng chữa viêm niêm mạc miệng lưỡi, viêm rát họng, ho do phế nhiệt.
Núm cuống quả hồng (tai hồng hay thị đế) có tác dụng giáng khí, trị nôn, ợ hơi. Thuốc Đông y có bài "Thị đế thang", "Thị đế tán" nổi tiếng chữa nôn ợ, hơi thở nóng... khá hiệu nghiệm.
Lá hồng có tác dụng hạ huyết áp, cầm máu, diệt khuẩn tiêu viêm, kéo dài tuổi thọ. Uống trà lá hồng lâu ngày sẽ làm cho mạch máu mềm đi, chữa xơ cứng động mạch và trị mất ngủ.
Dưới đây là 1 số ứng dụng cụ thể từ quả hồng và cây hồng:
Chữa tăng huyết áp: Lấy quả hồng tươi ép lấy nước (thị tất), hòa với sữa hoặc nước cơm uống 3 lần/ngày, mỗi lần nửa chén. Có tác dụng dự phòng "trúng phong" (tai biến mạch máu não) do tăng huyết áp.
Chữa chứng ưa chảy máu (hemophilia - huyết hữu bệnh): Hồng khô 30g, ngó sen 30g, hoa kinh giới 15g, đem sắc uống. Khi uống hòa thêm 10ml mật ong, mỗi ngày 1 thang, liên tục trong 15 ngày. Sau đó, nghỉ vài ngày rồi lại uống tiếp liệu trình như vậy cho tới khi khỏi.
Chữa tiểu tiện ra máu: Lấy núm cuống quả hồng rang trên ngọn lửa to hoặc đốt cho đến khi mặt ngoài cháy đen như than nhưng bên trong vẫn giữ nguyên màu (đốt tòn tính). Sau đó nghiền mịn, cất đi dùng dần. Hòa bột cùng cháo loãng hoặc nước cơm, ngày uống 2 lần vào lúc đói bụng.
Chữa các loại xuất huyết bên trong (chảy máu dạ dày, ho ra máu do lao, trĩ nội...): Lấy lá hồng rụng vào mùa thu rửa sạch, phơi khô, nghiền mịn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.
Chữa ban xuất huyết do giảm tiểu cầu: Cũng lấy lá hồng rụng mùa thu rửa sạch, phơi khô, nghiền mịn, ngày uống 2 lần vào buổi sáng và buổi tối, mỗi lần 3g, liên tục trong 1 tháng.
Chữa trĩ nội, đại tiện xuất huyết: Lấy quả hồng khô 12g, sắc uống hoặc nấu cháo ăn ngày 2 lần. Cũng có thể lấy quả hồng khô, rang vàng, tán mịn, uống ngày 3 lần, mỗi lần 6g.
Chữa thổ huyết, ho khạc ra máu: Hồng sấy khô, tán bột, ngày dùng 3 lần, mỗi lần 3g.
Chữa nấc: Lấy cuống quả hồng 3 - 5 cái, thêm 5 lát gừng sắc uống. Nếu thêm khoảng 5 - 6g đinh hương càng tốt.
Chữa kiết lỵ, viêm ruột: Lấy hồng khô thái nhỏ, sao vàng rồi tán thành bột mịn để uống dần, ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g, chiêu bằng nước đun sôi.
Chữa lưỡi, môi lở loét: Lấy phấn quả hồng 10g, bạc hà 5g thứ trộn lẫn với nhau đem nghiền mịn, bôi vào chỗ môi bị lở, rất mau khỏi. Hoặc chỉ cần dùng phấn quả hồng ngày bôi 3 lần vào chỗ bị lở, vài ngày cũng sẽ khỏi.
Chữa da bị dị ứng: Quả hồng còn xanh 500g, giã nát, thêm 1.500ml nước vào trộn đều, phơi nắng 7 ngày, bỏ bã, phơi tiếp trong 3 ngày nữa rót vào lọ dùng dần. Hàng ngày lấy bông thấm thuốc bôi vào chỗ da bị dị ứng 3 - 4 lần.
Tránh thụ thai: Núm cuống quả hồng 50g sấy khô, tán nhỏ, chia đều thành 6 gói. Trước và sau kỳ kinh uống 1 lần, mỗi lần 1 gói, liền trong 3 chu kỳ.
Quả hồng tuy bổ nhưng không phải ai cũng dùng được. Theo kinh nghiệm của Đông y, người tỳ vị hư hàn, tiêu chảy, đang bị cảm lạnh không được ăn hồng. Sau bữa ăn có món tôm và cua tránh ăn hồng. Ăn ngay 1 lúc quá nhiều hồng có thể đau trướng bụng, buồn nôn, tiêu chảy...
Đặc biệt, khi đói bụng không nên ăn quá nhiều hồng, nhất là hồng chưa thật chín và ăn cả vỏ. Bởi vì khi vào dạ dày 1 số thành phần trong quả hồng có thể kết hợp với dịch vị tạo thành những chất kết tủa không tan. Lúc đầu chỉ nhỏ như hạt mơ, dần dần có thể to như nắm tay, gọi là "thị thạch" (sỏi hồng).
(Theo Suckhoedoisong)